Khuyến khích đổi mới công nghệ trong nghiên cứu, sản xuất thuốc BVTV sinh học
14:26 - 04/12/2024
Thuốc BVTV sinh học an toàn, ít độc đối với sức khỏe con người, sinh vật; nhanh phân hủy trong tự nhiên, thời gian cách ly ngắn, ít để lại dư lượng trong nông sản...
Thị trường quan trọng bậc nhất ở Trung Đông này là tiềm năng cho con cá tra Việt Nam
Đài Loan (Trung Quốc) chi phối xuất khẩu hàu của Việt Nam
Giá cà phê tiếp tục rớt mạnh, Đắk Nông, Đắk Lắk và Gia Lai chưa đẩy nhiều cà phê ra thị trường
Trung An giải thể 2 công ty con, tập trung vào bán buôn gạo trong bối cảnh liên tục thua lỗ
Chính sách riêng cho phát triển thuốc BVTV sinh học
Tháng 12/2023, Bộ NN-PTNT đã phê duyệt Đề án phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Đề án).
Theo đó, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam phấn đấu trở thành quốc gia có tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sinh học dẫn đầu trong trong khu vực. Các cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học quy mô công nghiệp có công nghệ, trang thiết bị hiện đại, chủ động sản xuất được các thuốc BVTV sinh học tiên tiến đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Đề án cũng yêu cầu phải xây dựng mô hình cho 9 loại cây trồng khác nhau, tăng công suất sản xuất thuốc BVTV sinh học ở Việt Nam. Thực tế hiện nay trong số hơn 100 nhà máy sản xuất thuốc BVTV thì có khoảng 80% số nhà máy sản xuất thuốc BVTV sinh học, song sản lượng còn thấp.
Trao đổi tại tọa đàm “Hiểu đúng về thuốc bảo vệ thực vật” chiều 8/11, bà Bùi Thanh Hương, Trưởng phòng Thuốc BVTV (Cục Bảo vệ thực vật) cho biết, hiện nay Đề án đã có các chính sách riêng dành cho thuốc BVTV sinh học.
Các chính sách này hỗ trợ việc sử dụng thuốc BVTV sinh học một cách an toàn, hiệu quả, cũng như phát triển sản xuất và xây dựng các mô hình ứng dụng thuốc BVTV sinh học. Đồng thời, Đề án nhằm xây dựng quy trình, đưa ra hướng dẫn cụ thể, đảm bảo nông dân việc sử dụng thuốc BVTV sinh học đạt chuẩn.
Đây là định hướng phù hợp với xu hướng chung trên thế giới. Do đó, hợp tác quốc tế là một phần quan trọng trong quản lý và đăng ký thuốc BVTV sinh học, giúp Việt Nam hài hòa với các tiêu chuẩn của khu vực. Đề án còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp đăng ký và phát triển các sản phẩm BVTV sinh học.
Hơn 12 năm để công bố một hoạt chất thuốc BVTV mới
Ông Nguyễn Hữu Quảng - chuyên gia CropLife Việt Nam chia sẻ, khối tư nhân và các hiệp hội doanh nghiệp rất ủng hộ Đề án. “Đây là cam kết của ngành NN-PTNT nhằm bảo vệ an toàn cho người tiêu dùng, người sản xuất và các thế hệ tương lai”, ông Quảng nhấn mạnh.
Tuy nhiên theo ông Quảng, để nghiên cứu một hoạt chất mới đưa vào sản xuất thuốc BVTV thì không hề dễ dàng. Đến nay, thuốc BVTV là một trong những sản phẩm được đánh giá về tính an toàn nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Quá trình nghiên cứu kéo dài và tốn kém, trong đó, nghiên cứu đánh giá tác động môi trường chiếm tới 2/3 tổng chi phí nghiên cứu sản phẩm.
Ông Quảng dẫn chứng một nghiên cứu bởi AgBio Investor: Để giới thiệu một hoạt chất thuốc BVTV mới ra thị trường, các công ty cần đầu tư trung bình 301 triệu USD và mất 12,3 năm. Bởi các hệ thống quản lý cần thời gian dài để vừa chứng minh hiệu quả kiểm soát dịch hại, vừa đảm bảo an toàn môi trường và cả các sinh vật xung quanh cũng như môi trường đất, nước…
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, ông Quảng cho hay, châu Âu đã đầu tư khoảng 10 tỷ Euro cho nghiên cứu về thuốc BVTV sinh học. Trong cuộc đua phát triển sản phẩm thuốc BVTV sinh học, nhiều tập đoàn lớn thậm chí đã mua lại các công ty nhỏ chuyên về công nghệ sinh học nhằm giúp họ tiến xa hơn và có thêm cơ sở khoa học.
Sử dụng thuốc BVTV sinh học là lựa chọn phù hợp
Ông Nguyễn Văn Sơn - Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Sản xuất và Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam (VIPA) lưu ý, hiện nay thị trường có nhiều thuốc BVTV hóa học mới, cũng như có các thuốc sinh học đặc biệt, có khả năng tiêu diệt nhanh và hiệu quả các sinh vật gây hại.
Tuy nhiên, nhận thấy ưu điểm của thuốc BVTV hóa học, nhiều nông dân đã lạm dụng, sử dụng sai kỹ thuật và bỏ qua các biện pháp bảo vệ thực vật khác, tin rằng thuốc BVTV có thể giải quyết mọi vấn đề về sâu bệnh. Điều này bộc lộ nhiều hậu quả tiêu cực như gây ô nhiễm nguồn nước và đất, để lại dư lượng độc hại trên nông sản, gây nguy hiểm cho con người và các loài động vật máu nóng.
Ngoài ra, lạm dụng thuốc BVTV còn phá vỡ sự cân bằng tự nhiên, suy giảm tính đa dạng sinh học, tạo ra các loài sinh vật gây hại mới và gia tăng tình trạng kháng thuốc, dẫn đến bùng phát và tái phát dịch bệnh, làm giảm hiệu lực của thuốc.
Trong khi đó, thuốc BVTV sinh học thường an toàn và ít độc đối với sức khỏe con người, sinh vật có ích và môi trường, nhanh phân hủy trong tự nhiên, thời gian cách ly ngắn, ít để lại dư lượng trong nông sản nên rất thích hợp sử dụng cho các nhóm cây trồng như rau, chè, cây ăn quả...
Nhu cầu trên thị trường đang gia tăng đối với thực phẩm hữu cơ, do đó việc sử dụng thuốc BVTV sinh học trong sản xuất nông nghiệp là lựa chọn phù hợp. Nhiều tập đoàn lớn trong ngành thực phẩm toàn cầu cũng hướng đến kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp sử dụng thuốc BVTV sinh học trong sản xuất.